NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ 8/3

Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở Mỹ đã phát triển một cách mạnh mẽ. Nền kỹ nghệ đã thu hút nhiều phụ nữ và trẻ em vào các nhà máy, xí nghiệp. Nhưng bọn chủ tư bản trả lương họ rất rẻ mạt. Căm phẫn trước sự bất công đó, ngày 8/3/1899 nữ công nhân Mỹ đã đứng lên đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm. Phong trào bắt đầu từ công nhân ngành dệt và ngành may tại thành phố Chi-ca-gô và Nữu Ước. Mặc dù bọn tư bản ra tay đàn áp, chị em vẫn đoàn kết chặt chẽ, đấu tranh buộc chúng phải nhượng bộ. Cuộc đấu tranh của công nhân Mỹ đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào phụ nữ lao động trên thế giới, đặc biệt phụ nữ ở nước Đức. Phong trào đấu tranh đã xuất hiện hai nữ chiến sỹ lỗi lạc đó là bà Cla-ra-zét-kin (người Đức) và bà Lô-ra Lúc-xăm-bua (người Ba Lan). Nhận thức sự mạnh mẽ và đông đảo của lực lượng lao động nữ và sự cần thiết phải có tổ chức, phải có lãnh đạo để giành thắng lợi cho phong trào phụ nữ nên năm 1907 hai bà đã phối hợp với Crup-xcai-a (vợ Lênin) vận động thành lập Ban “Thư ký phụ nữ quốc tế”. Bà Cla-ra-zét-kin được cử làm Bí thư.

Năm 1910, Đại hội phụ nữ quốc tế XHCN họp tại Cô-pen-ha-gen (thủ đô Đan Mạch) đã quyết định lấy ngày 8/3 làm ngày “Quốc tế phụ nữ” – Ngày đoàn kết đấu tranh của phụ nữ với khẩu hiệu: “Ngày làm 8 giờ”, “Việc làm ngang nhau, tiền lương ngang nhau”, “Bảo vệ bà mẹ và trẻ em”

Từ đó ngày 8/3 trở thành ngày đấu tranh chung của phụ nữ lao động toàn thế giới.

Không ai có thể phủ nhận vai trò và trách nhiệm to lớn của người phụ nữ thời hiện đại: Họ vừa là người nội trợ, vừa tham gia lao động xã hội, đóng góp sức lực của mình vào sự phát triển của đất nước, không những thế họ còn giữ một thiên chức cao cả là một người mẹ, mang nặng đẻ đau ra những đứa con và nuôi dạy chúng thành người. Phụ nữ ngày nay đang dần khẳng định mình là phái đẹp chứ không còn là phái yếu như trước kia.

Ở một số nước trên thế giới, ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 được coi là ngày lễ chính trong năm và tổ chức rất lớn. Trong những xã hội này, đàn ông tặng hoa và quà cho những người phụ nữ trong đời của họ như mẹ, vợ, bạn gái…

Tại một số quốc gia, ngày Quốc tế Phụ nữ được kỷ niệm bằng những hoạt động liên hoan, diễu hành đòi quyền bình đẳng với nam giới, ở các vấn đề thực tiễn như mức lương, cơ hội giáo dục đào tạo và thăng tiến trong nghề nghiệp hay điều kiện an sinh xã hội, chống mại dâm và bạo lực đối với phụ nữ…

Để thể hiện sự tôn vinh những người phụ nữ, một nửa thế giới, các cơ quan, đoàn thể, gia đình thường tổ chức kỷ niệm ngày 8/3 rất trang trọng, tràn ngập hoa và những lời chúc tốt đẹp. Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 cũng là ngày nam giới thể hiện sự chăm sóc yêu thương cho người phụ nữ mà họ yêu quý.

NGÀY QUỐC TẾ PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM

Ở nước ta, ngày 8/3 còn là ngày kỷ niệm cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, 2 vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên đã đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc, giành lại chủ quyền dân tộc. Niềm tự hào và ý chí vươn lên của phụ nữ Việt Nam một phần cũng có cội nguồn từ truyền thống dân tộc độc đáo đó.

Ngày 8/3/1965, đánh giá cao cống hiến của phụ nữ miền Nam Đảng, chính phủ, Bác Hồ đã tặng bức trướng thêu 8 chữ vàng “Anh hùng – Bất khuất – Trung hậu – Đảm đang” và Nhà nước đã tặng Phụ nữ miền Nam Huân chương “Thành đồng” hạng nhất.

Hiện nay, ở Việt Nam, phụ nữ chiếm 51% lực lượng lao động và đóng vai trò chính trong công việc gia đình và nuôi dạy con cái. Trong số các đại biểu của Quốc hội Việt Nam, tổ chức quyền lực cao nhất, phụ nữ chiếm 27,3% và được Liên Hiệp Quốc đánh giá: “Phụ nữ Việt Nam tham gia hoạt động chính trị cao nhất thế giới”. Việt Nam có tỷ lệ nữ tốt nghiệp đại học là 36,24%, thạc sĩ 33,95% và tiến sĩ 25,96%.

Vào ngày 8/3 hàng năm, những người phụ nữ trong cả nước thường được tặng hoa, tặng quà hoặc tổ chức những buổi lễ kỷ niệm để thể hiện sự quan tâm, ngợi ca và bày tỏ niềm kính trọng. Một ngày bù đắp cho những vất vả của những người mẹ tảo tần cho gia đình và xã hội, những người vợ đảm đang, vun vén dựng xây tổ ấm gia đình.

KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG – KẾT TINH LÒNG YÊU NƯỚC, SỨC MẠNH VÀ TRÍ TUỆ PHỤ NỮ VIỆT NAM

Liên Hiệp quốc đã lấy ngày 8-3 hằng năm làm ngày Quốc tế Phụ nữ và Liên Hiệp quốc đã thông qua nghị quyết các nước thành viên kỷ niệm ngày này như là ngày vì quyền bình đẳng, sự tiến bộ của phụ nữ và hòa bình cho thế giới… Ở nước ta, Ngày 8 tháng 3 còn có ý nghĩa lớn lao, là dịp để dân tộc Việt Nam kỷ niệm cuộc Khởi nghĩa Hai Bà Trưng – Hai vị nữ anh hùng dân tộc đầu tiên không chịu kiếp làm tỳ thiếp cho kẻ thù, đứng dậy phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi giặc ngoại xâm, giữ nguyên bờ cõi. Họ là người đại diện cho lòng yêu nước, ý chí, nghị lực, sức mạnh quật khởi của người phụ  nữ Việt Nam, sức mạnh và trí tuệ Phụ nữ Việt Nam, nét đẹp văn hoá dân tộc “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”.

Trưng Trắc, Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi (sinh vào ngày 01-8 năm Giáp Tuất, năm 14 sau công nguyên), là con gái của Lạc tướng huyện Mê Linh (người đứng đầu bộ lạc huyện Mê Linh, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay) thuộc dòng dõi Hùng Vương. Mẹ là bà Man Thiện. Hai Bà mồ côi cha sớm nhưng được mẹ quan tâm nuôi dưỡng, dạy cho nghề trồng dâu, nuôi tằm, truyền lòng yêu nước, rèn luyện sức khoẻ, rèn luyện võ nghệ. Chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách, con trai Lạc tướng huyện Chu Diên (Hà Nội ngày nay) rất đau lòng chứng kiến hành động tàn bạo của phong kiến phương Bắc.

Với chính sách cai trị hà khắc, nhà Đông Hán, đại diện là viên Thái thú Tô Định – người vô cùng bạo ngược, tham lam, vừa giết người đặc biệt là “con trai Việt”, vừa cướp của cải. Tận mắt chứng kiến hình ảnh ấy, Hai Bà Trưng cùng Thi Sách chiêu mộ nghĩa quân, chuẩn bị khởi nghĩa. Song, cuộc khởi nghĩa chưa diễn ra thì Thi Sách bị Tô Định giết chết. Thù chồng, nợ nước, bà Trưng Trắc đã cùng em gái Trưng Nhị phát động cuộc khởi nghĩa ở cửa Sông Hát (thuộc địa phận huyện Phúc Thọ, Hà Nội ngày nay) với lời thề sắt son trước giờ xuất binh:

 “Một xin rửa sạch nước thù

Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng

Ba kẻo oan ức lòng chồng

Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này”.

Lời hịch thiêng liêng “Đền nợ nước, trả thù nhà” đã nhận được sự hưởng ứng của các Lạc hầu, Lạc tướng và những người yêu nước ở khắp các thị, quận cùng đông đảo lực lượng là phụ nữ tham gia khởi nghĩa.

Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng được nhân dân khắp nơi ủng hộ, tạo thành sức mạnh như vũ bão, giáng những đòn mạnh mẽ vào kẻ thù, buộc Tô Định phải bỏ chạy về nước. Dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng, nhiều cuộc khởi nghĩa địa phương được tập hợp, thống nhất thành một phong trào rộng lớn từ miền xuôi đến miền núi, bao gồm cả người Việt và các dân tộc khác trong nước Âu Lạc cũ.

Bằng ý chí, uy tín và nghị lực phi thường của hai người phụ nữ, nhân dân đã tập hợp thành lực lượng đông đảo, chỉ trong một thời gian ngắn, nghĩa quân của Hai Bà Trưng đã đánh chiếm được 65 huyện thành, thu toàn bộ lãnh thổ nước Việt, đánh bại âm mưu xâm lược của phong kiến phương Bắc. Cuộc khởi nghĩa thành công, đất nước được hoàn toàn độc lập. Trưng Trắc lên làm vua, được suy tôn là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh.

Trong lịch sử thế giới, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, chống lại quân Đông Hán phương Bắc xâm lược được xem là cuộc khởi nghĩa của những bậc nữ anh hùng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam đứng lên tranh đấu giành độc lập cho đất nước, trước cả nữ anh hùng Jeanne d’Arc (1412-1413) của Pháp gần 14 thế kỷ. Hai Bà Trưng được vinh danh là những người phụ nữ mở nước đầu tiên của Việt Nam và xây dựng kinh đô tại Mê Linh – Phú Thọ, tiếp tục cùng nhân dân giữ vững nền độc lập, quyền tự chủ dân tộc trong gần 3 năm. Vì vậy, dân gian thường truyền nhau câu thơ:

“Đô kỳ đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta”.

Nói về sự kiện này, trong Đại Việt sử ký toàn thư, nhà sử học Lê Văn Hưu ghi nhận công lao của Hai Bà Trưng như sau: “Trưng Trắc và Trưng Nhị là đàn bà, vậy mà hô một tiếng, các quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cùng 65 thành ở Lĩnh Ngoại đều nhất tề hưởng ứng, việc dựng nước xưng vương dễ như trở bàn tay, xem thế cũng đủ biết hình thế nước Việt ta có thể dựng nghiệp bá vương được…”.

Sử gia Ngô Sĩ Liên đã viết “Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, liền vung tay hô một tiếng mà khiến cho quốc thống của nước nhà có cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng đâu phải chỉ khi sống thì dựng nước xưng vương, mà còn cả ở khi chết còn có thể ngăn chặn tai họa. Phàm gặp những tai ương hạn lụt, cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả đến Trưng Nhị cũng vậy. Ấy là vì đàn bà mà có đức hạnh của kẻ sĩ, cho nên, khí hùng dũng ở trong khoảng trời đất chẳng vì thân đã chết mà kém đi.… đại trượng phu… nên nuôi lấy khí phách cương trực và chính đại đó…”.

Nhà Hán thấy bà xưng vương đã dấy quân đánh lấy lại các thành. Tháng 1-42, Mã Viện – tướng nhà Hán tiến đánh vào kinh đô nước Việt. Hai Bà Trưng cùng nhân dân quyết tâm đánh lại quân nhà Hán và quân Hán đánh trả quyết liệt tại vùng Lãng Bạc (Tiên Sơn – Bắc Ninh), Cẩm Khê (Ba Vì – Hà Nội). Trước sức mạnh của kẻ thù, Hai Bà đã tự gieo mình xuống Hát Giang tử tiết vào ngày 6-2-43.

Bộ Lịch sử Việt Nam của Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (1971), khi phân tích của cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, có nhận xét: “Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà là kết tinh của quá trình đấu tranh, khi âm thầm, khi công khai của nhân dân Việt Nam. Đấy là một phong trào nổi dậy của toàn dân vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa ở Hát Môn do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ. Khởi nghĩa đã thắng lợi vì đó là một phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi chứ không phải là một hành động tự phát của một tù trưởng, một bộ lạc riêng lẻ”.

Sau khi Hai Bà Trưng mất, tưởng nhớ công ơn của các liệt nữ anh hùng đầu tiên của dân tộc, nhân dân nhiều địa phương đã lập đền, miếu thờ phụng Hai Bà và các tướng lĩnh. Đặc biệt, ở Kinh đô Mê Linh, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân luôn quan tâm việc giữ gìn, tôn tạo đền thờ Hai Bà Trưng. Hằng năm tổ chức lễ hội dâng hương tưởng nhớ công đức Hai Bà đối với dân tộc.

Năm 1980, Đền thờ Hai Bà Trưng được xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt quan trọng. Đền thờ được gìn giữ, tôn tạo, mở rộng nhằm tôn vinh công lao của Hai Bà. Qua đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc cho thế hệ hôm nay và mai sau, đồng thời thể hiện lòng biết ơn, trách nhiệm, sự tri ân của thế hệ hôm nay với các bậc tiên hiền có công với nước.

Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo đầu công nguyên không chỉ là bằng chứng hùng hồn của tinh thần yêu nước, yêu tự do cũng như khí phách “tấn công cả trời” của tổ tiên ta thời đó mà còn định ra một loại hình chiến tranh trước đây chưa hề có mà sau này dân tộc ta kế thừa, phát huy lên tầm cao mới trong các cuộc kháng chiến chống ngoại bang mà đỉnh cao là trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Tiếp nối chiến công hiển hách của Hai Bà Trưng đầu thế kỷ, phụ nữ Việt Nam luôn chắc tay liềm, vững tay súng, cùng với dân tộc Việt Nam làm nên huyền thoại trong hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Họ thật sự xứng đáng với danh hiệu mà Bác Hồ phong tặng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và sáng tạo trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hai Bà Trưng là biểu tượng của ý chí hiên ngang và khí phách quật cường của dân tộc nói chung và phụ nữ nói riêng. Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng mãi mãi là tài sản vô giá về tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất của nhân dân Việt Nam. Tiếp nối truyền thống vẻ vang của Hai Bà, trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, cùng với nhân dân cả nước, phụ nữ Việt Nam luôn tỏ rõ phẩm chất tốt đẹp: Năng động, sáng tạo, trung hậu, đảm đang, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

“GIỎI VIỆC NƯỚC, ĐẢM VIỆC NHÀ” – TUYÊN NGÔN CỦA PHỤ NỮ VIỆT NAM THỜI HIỆN ĐẠI

Từ ngàn xưa, quan niệm Nho giáo về “tam tòng tứ đức” luôn được xem là thước đo nhân phẩm và bổn phận của người phụ nữ Á Đông trong gia đình. Phụ nữ xưa phải tuân theo đạo tam tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (Tạm dịch: Ở nhà theo cha, cưới chồng theo chồng, chồng chết theo con). Như vậy, phụ nữ xưa không được phép tự chuyên mà luôn phải “đứng sau” cha, chồng và con trai.

Bên cạnh đó, người phụ nữ truyền thống còn được đánh giá dựa vào chuẩn mực “tứ đức” là Công – Dung – Ngôn – Hạnh. “Tứ đức” đã trở thành đặc điểm thể hiện tinh thần, thể chất của người phụ nữ xưa:

  • Công: Nữ công gia chánh, tề gia nội trợ và nuôi dạy con cái.
  • Dung: Ý chỉ nhan sắc, vẻ đẹp hình thức của phụ nữ.
  • Ngôn: Cử chỉ, lời ăn tiếng nói nhỏ nhẹ, dịu dàng và lễ phép.
  • Hạnh: Ý chỉ sự đoan trang, đức hạnh, đứng đắn, cùng lòng chung thủy giữa vợ – chồng, hiếu thảo với mẹ cha…

Phụ nữ xưa trở thành người gìn giữ nề nếp gia phong, đảm đang, quán xuyến việc nhà và nuôi dạy con cái. Cũng chính vì thế, đức tính cao đẹp của người phụ nữ luôn được tôn vinh và trở thành phẩm chất đạo đức truyền thống quý báu của phụ nữ Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế chính điều này vẫn tồn tại rất nhiều mặt tiêu cực đã trở thành “xiềng xích” gò bó người phụ nữ…

Quan niệm “tam tòng tứ đức” khiến phụ nữ xưa bị trói buộc với tư tưởng phụ nữ chỉ nên ở nhà chăm lo, quán xuyến việc nhà và nghe theo lời của người đàn ông. Phụ nữ không có cơ hội được thể hiện tài năng, trí tuệ của mình ngoài xã hội mà tất cả mọi thứ đều bị lệ thuộc vào người đàn ông. Người đàn ông được phép thực hiện các vai trò xã hội, kiếm tiền và nắm giữ tài lực của gia đình. Điều này càng củng cố thêm quyền lực và địa vị của đàn ông trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Những điều trên đã hình thành tư tưởng “trọng nam khinh nữ” và duy trì ở rất nhiều gia đình cho đến ngày nay. Chưa kể, đức tính hy sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ lại khiến cho những xiềng xích trói buộc càng chặt và làm người phụ nữ cứ mãi trong vòng luẩn quẩn, tù túng mà không thoát ra được.

Với những mặt trái của “Công – Dung – Ngôn – Hạnh” truyền thống ngày xưa, liệu chúng ta có nên tiếp tục gìn giữ? Câu trả lời chính là gìn giữ, chọn lọc và phát triển thêm tốt đẹp. Cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loại, sự bình đẳng giới ngày càng được quan tâm và trở thành xu thế của thời đại. Thước đo “Công – Dung – Ngôn – Hạnh” không chỉ kế thừa những đặc điểm truyền thống tốt đẹp trước mà còn phát triển, thay đổi, mở rộng hơn.

Nổi bật trong đó là sự phát triển và thay đổi của yếu tố “Công” thời hiện đại. Ngoài sự khéo léo, nữ công gia chánh trước đây, người phụ nữ được quyền tham gia làm kinh tế, chính trị và cả văn hóa. Đến nay, phụ nữ đã trở thành người đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng.

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY QUỐC TẾ HẠNH PHÚC 20/3

Ngày Quốc tế hạnh phúc 20/3 được Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Ban Ki Moon chính thức công bố tại một hội nghị của Liên Hợp Quốc về vấn đề này từ tháng 6/2012.

Đến nay, đã có 193 quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam cùng cam kết ủng hộ, hành động, tích cực và nỗ lực nhiều hơn để xây dựng một thế giới đại đồng, nâng cao chất lượng cuộc sống, xây dựng xã hội công bằng, phát triển bền vững, đem lại hạnh phúc cho nhân loại.

Ngày Quốc tế hạnh phúc được lấy từ ý tưởng từ Bhutan, quốc gia vốn được đánh giá là hạnh phúc nhất thế giới dựa trên các yếu tố như sức khoẻ, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân. Liên Hợp Quốc quyết định kỷ niệm ngày này theo đề xuất của Vương quốc Bhutan, một quốc gia nhỏ bé ở khu vực Nam Á, nằm sâu trong lục địa phía Đông dãy Himalaya. Bắt đầu từ những năm 1970, nhà vua của vương quốc này đã đưa ra một cách thức mới đánh giá sự thịnh vượng của xã hội, đó là thông qua chỉ số hạnh phúc quốc gia, bên cạnh các chỉ số về kinh tế thường được dùng để đánh giá về sự giàu có vật chất. Chỉ số này được tính toán dựa trên các yếu tố về sức khỏe, tinh thần, giáo dục, môi trường, chất lượng quản lý và mức sống của người dân.

Đại diện quốc gia Bhutan cho rằng, nhu cầu về Ngày Hạnh phúc này là đối với tất cả quốc gia và con người trên toàn thế giới để có những bước vượt lên trên sự khác biệt giữa các nước và con người trên toàn thế giới, và liên kết, đoàn kết toàn nhân loại. Việc Liên Hiệp Quốc chọn ngày 20/3 là Ngày Quốc tế Hạnh phúc, còn vì đây là ngày đặc biệt trong năm, khi mặt trời nằm ngang đường xích đạo, nên trong ngày này có độ dài ngày và đêm bằng nhau – là biểu tượng cho sự cân bằng, hài hòa của vũ trụ, cũng là biểu tượng của sự cân bằng giữa âm và dương, giữa ánh sáng và bóng tối, giữa ước mơ và hiện thực… Bởi vậy, ngày 20/3 – Ngày Quốc tế Hạnh phúc cũng truyền tải thông điệp rằng: Cân bằng, hài hòa là một trong những chìa khóa để mang đến hạnh phúc.

“Đối với mỗi người khác nhau, hạnh phúc có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta đều công nhận rằng, hạnh phúc nghĩa là làm việc để chấm dứt xung đột, nghèo đói và các điều kiện không may mắn khác và rất nhiều đồng loại của chúng ta hiện đang phải sống trong các điều kiện đó. Hạnh phúc không phải là điều phù phiếm, cũng không phải là điều gì xa xỉ. Hạnh phúc là khát khao sâu xa của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Hạnh phúc không nên từ chối một ai và phải là của tất cả mọi người. Khát vọng này ẩn chứa trong cam kết của Hiến chương Liên Hợp Quốc để thúc đẩy hòa bình, công bằng, nhân quyền, tiến bộ xã hội và mức sống được cải thiện”.

Việt Nam là quốc gia có hàng ngàn năm lịch sử, do đó không hề xa lạ với mục tiêu hạnh phúc. Kể từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời đến nay, “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” đã trở thành tôn chỉ quốc gia. “Độc lập là tiền đề của tự do, hạnh phúc của nhân dân. Tự do, hạnh phúc của nhân dân là thước đo giá trị, là mục tiêu của độc lập dân tộc. Hạnh phúc của nhân dân chỉ trọn vẹn khi là công dân của một nước độc lập và có đời sống vật chất ngày càng đầy đủ, có đời sống tinh thần lành mạnh. Nhân dân phải là người chủ thực thụ của đất nước và của quá trình phát triển. Mọi người đều có điều kiện để phát triển toàn diện, hướng tới chân, thiện, mỹ. Đó cũng luôn là mục tiêu, là động lực để chúng ta tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, quyết tâm xây dựng và bảo vệ một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”.

 Việc tổ chức Ngày Quốc tế Hạnh phúc của Việt Nam là để cùng cả thế giới biểu thị mong muốn, niềm tin và quyết tâm phấn đấu vì một thế giới hòa bình, không có chiến tranh, không còn đói nghèo; một thế giới phát triển thịnh vượng và bền vững; một thế giới mà tất cả mọi người dù khác màu da, dân tộc, tôn giáo đều được hưởng trọn vẹn hạnh phúc. Để Ngày Quốc tế Hạnh phúc có ý nghĩa thiết thực và cao đẹp, chúng ta hãy cùng nhau chung sức, chung lòng, trách nhiệm, sáng tạo, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, trong đó đặc biệt quan tâm tới các khu vực đồng bào dân tộc ít người còn nhiều khó khăn, tới các đối tượng chính sách dễ bị tổn thương. Hãy cùng nhau kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, hiếu nghĩa của dân tộc Việt Nam. Hãy yêu thương và sẻ chia để tìm thấy cho mình và giúp những người quanh ta, trước hết là gia đình, là những người thân có nhiều giây phút hạnh phúc đích thực!

Theo: Cung văn hoá Thanh thiếu nhi Quảng Ninh